Sự đa dạng của vật liệu trần và mái

Tham gia
1/3/19
Bài viết
798
Được thích
0
66 #1
Sự đa dạng của vật liệu trần và mái

Trần nhà – vật liệu không thể thiếu

Trần là diện phía trên của phòng hay không gian nội thất. Trần có thể chính là mặt dưới của kết cấu sàn hay mái. Trong xu hướng thiết kế máy đánh bóng sàn bê tông xây dựng hiện nay, trần giả (gọi tắt là trần), nằm dưới và độc lập với kết cấu của sàn, mái đã trở nên cần thiết và phổ biến hơn rất nhiều. Trần được thiết kế và thi công lắp dựng nhằm tạo hiệu quả thẩm mỹ cần thiết cho không gian nội thất, có tác dụng cách âm, cách nhiệt, đồng thời cũng che đi những hệ thống kỹ thuật phía trên (ống nước, dây điện, ống bảo ôn điều hoà…)

Trần cũng là bề mặt để lắp các loại thiết bị chiếu sáng, thiết bị kỹ thuật như đèn âm, điều hoà, cửa thông gió, thiết bị báo cháy, chữa cháy. Những thiết bị này đòi hỏi có một “khoảng âm” nhất định, vì thế không thể lắp trực tiếp lên trần bêtông (kết cấu sàn trên).

Về mặt kỹ thuật, có thể chia làm hai loại: trần chìm và trần nổi. Trần chìm là loại trần mà các hệ thống khung xương nằm trên bề mặt trần không nhìn thấy, và trần nổi là trần để lộ các hệ thống khung xương, thường được tổ chức thành các module tương ứng với các loại mặt thiết bị (đèn, cửa thông gió…) Vật liệu trần cũng phong phú và đa dạng. Cũng như vách, phổ biến nhất là trần thạch cao, được sử dụng nhiều trong các công trình dân dụng như nhà ở, nhà hàng, văn phòng bán máy đánh bóng sàn bê tông… Ngoài ra còn có các loại vật liệu khác được sử dụng làm trần như gỗ, nhựa, nhôm, vật liệu composit…


Hệ thống trần chìm với vật liệu thạch cao được sử dụng cho các diện trần không lớn quá, hay các yêu cầu về tạo hình, kết hợp cùng chiếu sáng.

Hệ thống trần nổi cũng dễ dàng che đi khiếm khuyết về độ phẳng do các tấm trần bị ngăn cách bởi các xương liên kết. Khi cần xử lý kỹ thuật chỉ cần tháo các tấm trần (module) là dễ dàng tiếp cận hệ thống kỹ thuật rồi lại lắp ráp trở lại dễ dàng. Với yêu cầu ngày càng cao cho hệ thống thiết bị của công trình, thì hệ thống trần – cũng là một loại kết cấu bao che nội thất đã trở nên cần thiết, thậm chí là không thể thiếu.

Kính được sử dụng làm mái, ngăn mưa và cho hiệu quả sáng, thoáng.
Đa dạng vật liệu mái

Mái là bộ phận bao che phía trên của công trình kiến trúc. Mái có ý nghĩa quan trọng cho việc bảo vệ công trình cũng như yếu tố thẩm mỹ công trình. Bên cạnh các vật liệu và kết cấu mái truyền thống như mái ngói, mái bêtông; hiện nay có rất nhiều loại vật liệu bao che mái – các loại tấm lợp. Mái bêtông có nhược điểm là tải trọng lớn, dễ nứt gây thấm dột, mái ngói có nhược điểm là thi công lâu, không thực hiện trên các công trình có diện mái lớn, độ dốc thấp, không phù hợp với quy trình thi công công nghiệp. Các loại tấm lợp đã khắc phục được những nhược điểm này, đáp ứng được nhu cầu của thực tế xây dựng.

Hiện vẫn tồn tại loại tấm lợp rẻ tiền là fibrô-ximăng, được sử dụng cho những công trình tạm. Tuy nhiên mái tôn gần như chiếm ưu thế tuyệt đối cho thể loại này. Mái tôn có ưu điểm là nhẹ, bền, bị nối ít, thi công nhanh gọn và nhược điểm là cách nhiệt, cách âm kém. Ưu điểm của mái tôn là nhẹ cũng là nhược điểm bởi dễ bị gió tốc từ dưới, có thể phá liên kết với hệ khung kết cấu, bay ra ngoài rất nguy hiểm. Tấm lợp tôn cũng có nhiều loại với nhiều hình thức: tôn mạ kẽm, tôn mạ màu, tôn sơn tĩnh điện, tôn chống nóng (có tích hợp một hệ thống lớp cách nhiệt ở mặt dưới)… tôn sóng tròn, tôn sóng vuông… Mái tôn hiện là vật liệu lợp phổ biến và thông dụng nhất trong cả xây dựng dân dụng và công nghiệp.

Ở mức độ cao hơn, là các tấm lợp mái được nghiên cứu và sản xuất đáp ứng được các yêu cầu thẩm mỹ cũng như kỹ thuật mua máy đánh bóng sàn bê tông, mà vẫn có những ưu điểm của loại vật liệu công nghiệp. Đó là các loại tấm lợp có khả năng cách âm, cách nhiệt, bền trong điều kiện tự nhiên, chịu được tác động hoá học, cơ học. Các dạng tấm lợp này có thể có sóng như tôn, hoặc mô phỏng hình thức mái ngói, tuy nhiên màu sắc rất đa dạng. Những tấm lợp có thể được sản xuất theo khổ lớn, hay theo băng dài – khi lợp chồng lên nhau sẽ tạo đường gân như từng lớp ngói. Vật liệu của các loại tấm lợp có nhiều nguồn gốc.

Tấm lợp AHI (sản xuất từ Malaysia bởi công nghệ New Zealand) được sản xuất từ hợp kim nhôm kẽm, bề mặt phủ một lớp hạt đá tự nhiên có màu; tấm lợp Onduline (công nghệ Pháp) còn được gọi là tấm lợp sinh thái có nguồn gốc hữu cơ, được chế tạo sợi hữu cơ tổng hợp và nhựa Bitum. Tấm lợp polycarbonate, vẫn được biết đến với tên gọi tấm nhựa thông minh lại là một lựa chọn thay thế cho kính với những đặc điểm tương đồng (phẳng, nhẵn, trong) và có nhiều ưu điểm riêng như nhẹ, an toàn, ít hấp thụ nhiệt, có khả năng uốn cong cơ học trong điều kiện bình thường và giá thành rẻ hơn nhiều so với kính. Nhược điểm của tấm lợp polycarbonate là gây tiếng ồn lớn khi mưa và rất khó vệ sinh khi chất bẩn chui vào trong các lỗ rỗng của tấm, gây mất thẩm mỹ.
 

Theo dõi Youtube

Thành viên online

Quảng Cáo

Quảng Cáo

Có thể bạn quan tâm

Top Bottom